Bạn có thường tự hỏi VẬN MỆNH của mình như thế nào, tốt hay xấu? Bạn tìm các tài liệu để đọc, nhưng dường như chúng quá phức tạp, chung chung và không phải dành riêng cho bạn !?.
Nếu vậy thì tập Bản đồ VẬN MỆNH này sẽ là giải pháp dành riêng cho bạn. Đây là một bộ tài liệu được các chuyên gia lý số của chúng tôi nghiên cứu, đúc kết dựa trên chính những họ tên và năm tháng ngày giờ mà bạn cung cấp, để bình giải cho VẬN MỆNH của riêng bạn.
Đây là tiếng nói của các con số, mức độ chính xác phụ thuộc lớn nhất vào thông tin mà bạn cung cấp (đặc biệt là giờ sinh trong tứ trụ) vì vậy trước khi đọc các bước tiếp theo, bạn hãy kiểm tra lại một lần nữa về thông tin của mình nhé.
Ngoài yếu tố về độ chính xác của thông tin, chúng ta cũng cần phải hiểu VẬN MỆNH của bạn cũng chỉ là 2 trong 6 yếu tố mà cổ nhân đã đề cập là NHẤT MỆNH - NHÌ VẬN - TAM ÂM - TỨ ĐỨC - NGŨ GIAO TẾ - LỤC TÀI NĂNG. Cụ thể 6 yếu tố này là gì?
1. Nhất Mệnh: Đây là yếu tố quan trọng nhất của một đời người.
Mệnh giống như một cỗ xe. Bạn sinh ra vốn là một cỗ xe gì thì mãi mãi là cỗ xe ấy mà không thể thay đổi được theo thời gian. Ví như Mệnh của bạn là một chiếc xe đạp thì mãi là chiếc xe đạp, không thể cải mệnh cho bạn thành một chiếc máy bay được. Một ví dụ khác cụ thể hơn, ngày xưa Khổng Minh thời Tam Quốc biết rằng Mệnh của ông chỉ có thể làm Quân Sư (làm thầy cho một vương quân nào đó) nên ông phải chờ gặp được minh quân là Lưu Bị thì ông mới xuống núi để phò vua. Hay như bản thân tôi (người đang thay mặt cho các chuyên gia lý số - phong thủy soạn cho bạn tấm bản đồ này) trước đây rất đam mê kinh doanh. Tôi mở công ty, lập doanh nghiệp, xây dựng đội nhóm bán hàng, v.v. cũng rất thành công nhưng không cảm thấy hạnh phúc, tiền kiếm ra được bao nhiêu rồi cũng hết.
Cho đến một ngày tôi gặp được vị ân sư của tôi, ông đã giúp tôi hiểu đúng về chữ MỆNH của mình, rằng Mệnh của tôi hợp làm THẦY (thầy giáo, thầy lý số, thầy địa lý v.v.) chứ không phải là doanh nhân. Tôi đã chuyển nghề. Kể từ đó, cuộc đời tôi hoàn toàn thay đổi: kinh tế ổn định, tinh thần sảng khoái, sức khỏe đi lên, v.v.. Và điều đặc biệt nhất đó là tôi luôn cảm thấy HẠNH PHÚC TRONG CÔNG VIỆC. Đây chính là yếu tố hàng đầu mà trong BẢN ĐỒ VẬN MỆNH này sẽ đề cập cho bạn.
Đứng trên quan điểm của Phật giáo thì MỆNH là không thể nào thay đổi được cho dù có cố gắng. Bởi vì MỆNH chính là kho tàng cất giữ những nghiệp thiện – ác mà một người đã tạo thành từ những kiếp sống trước đó và được tập hợp lại, tuyệt không bỏ sót dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhất. Đến khi thời cơ thích hợp, những hạt giống thiện - ác ấy sẽ được sinh trưởng và trổ quả. Quả ngọt hay đắng chính là nghiệp mà người đó phải lãnh, vì đó chính là kết quả của những việc người đó đã làm trong những kiếp trước của mình. Không thể trốn cũng không thể bỏ.
2. Nhì Vận: Yếu tố VẬN được các nhà lý số cổ kim xếp vào quan trọng thứ 2 trong cuộc đời một con người.
Nếu xem MỆNH là cỗ xe thì VẬN có thể ví như con đường mà cỗ xe đó phải đi qua. Khi cỗ xe đó chạy qua những đoạn đường phù hợp (xe đạp chạy qua đường hẹp, ô tô gặp cao tốc, thuyền gặp dòng nước xuôi, máy bay có đường bay hoàn hảo v.v.) thì gọi là VẬN CÁT (may mắn, thuận lợi). Ngược lại, khi qua đoạn đường không phù hợp (ô tô gặp đường quá nhỏ, xe đạp phải leo dốc, thuyền ngược nước v.v.) thì gọi là gặp VẬN HUNG (khó khăn, xui xẻo).
Quay trở lại với trường hợp Khổng Minh tiên sinh, ông phải ở ẩn chờ vận đến năm 27 tuổi mới xuống núi làm quân sư cho Lưu Bị vì lúc đó mới đúng thời vận của ông. Hay là bản thân tôi cũng có niềm đam mê và khả năng về lý số từ nhỏ, nhưng cũng phải sau năm 30 tuổi mới chính thức bước vào làm việc ở lĩnh vực này.
VẬN nằm trong tay của chính chúng ta nên nếu thật tâm muốn thì có thể thay đổi được. Xe thuộc loại nào, con đường quanh co hay tràn ngập hương thơm chính là MỆNH. Còn VẬN là việc bạn sẽ chọn cách thức lái xe như thế nào để đi suốt quãng đường cuộc đời của mình. Có người may mắn sở hữu một chiếc xe tốt, con đường đi cũng tràn ngập hoa thơm; nhưng bản thân lại để tự nhiên trôi theo dòng nước, lái xe không chuyên tâm dẫn đến kết quả là cuộc đời ngã sang một trang khác, sống một kiếp gian truân. Lại có người chỉ có một chiếc xe tồi tàn, cũ kĩ; đường đi thì toàn sỏi đá, chông gai, bùn lầy, quanh co khúc khuỷu; nhưng họ luôn chăm chỉ, cẩn thận, nhiệt huyết, dành cả tâm tư để lái xe thì kết quả gặt hái được là sự bình an, mãn nguyện cả đời.
MỆNH chính là bất biến, không bao giờ có thể đổi thay, nhưng VẬN lại nằm trong tay của bản thân mình. Thế nên người ta mới hay nói đoán mệnh, chứ nào nghe ai nói đoán vận bao giờ.
Bậc thánh nhân hiểu mệnh, biết thời, không sợ hãi.
MỆNH là cố định, nhưng VẬN thì thay đổi theo từng thời kỳ, thời điểm khác nhau. Một chiếc xe đạp dù không giá trị như một chiếc ô tô, nhưng khi chạy đến đoạn đường nhỏ hẹp thì nó phát huy tác dụng, một chiếc ô tô không thể chạy dưới bùn lầy như một chiếc máy cày, thuyền thì phải có sông nước để bơi, máy bay thì phải có bầu trời để tung cánh. Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, Gặp thời một tốt cũng thành công” chính là ý này vậy.
Quân tử hiểu mệnh chứ không xem mệnh, vạn vật trên thế gian có thời, có vận, có thế.
"THỜI" tức là thời cơ. Có thiên thời mà vận số chưa tới thì cũng khó tránh khỏi thất bại.
"VẬN" là sự hòa hợp giữa thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
"THẾ" nghĩa là tiềm lực. Tiềm lực càng lớn, năng lượng càng nhiều. Tiềm lực mạnh thì sức lực của ta chẳng khác nào thác đổ.
Ba thứ trên hợp lại, mới tạo thành hai chữ "VẬN MỆNH". Ba thứ này chưa hợp, vận tự nhiên sẽ không luân chuyển, số mệnh con người cũng vì thế mà gặp nguy.
Khổng Tử nói: "Người không hiểu mệnh, không được coi là quân tử".
Hiểu mệnh trước nhất là phải biết "mệnh của mình", tức là phải biết làm thế nào để lập thân, xử thế trên cõi đời này.
Sau đó là phải hiểu được "mệnh trời". Sau khi đã trải qua những dâu bể cuộc đời, cảm ngộ được cái "đại thiên địa tự nhiên", từ đó thấm nhuần triết lý "thuận thiên ứng mệnh".
Một người sau khi đã hiểu mệnh, trong lòng tự nhiên sẽ chẳng còn nghi ngờ, có thể thản nhiên đón nhận tất cả, càng không cần "đoán mò" vận mệnh.
Hiểu được vận mệnh, nắm bắt vận mệnh, chấp nhận vận mệnh chính là tư thái của bậc chính nhân quân tử. Hoan hỷ tự tại, cuộc sống nhiều niềm vui.
“MỆNH TẠI THIÊN – VẬN TẠI NHÂN” mang hàm ý rằng mệnh là do ông trời định đoạt, còn vận thì nằm trong tay ta, vậy có thể thay đổi vận mệnh con người không?
Trên thế gian này, mỗi sinh mạng là một cuộc đời, một câu chuyện khác nhau:
Con người không thể thay đổi được vận mệnh của mình, nhưng có thể TỐI ƯU HÓA vận mệnh của mình dựa vào 4 yếu tố còn lại sau đây:
3. Tam Âm: Âm ở đây được hiểu là những yếu tố mà con người bằng mắt thường dù không thể nhìn thấy nhưng lại quan trọng thứ 3.
Đó chính là những quy luật vận hành trong vũ trụ như quy luật âm - dương, luật ngũ hành, luật hấp dẫn, luật nhân quả, v.v.. Con người nếu hiểu và vận hành đúng các quy luật nêu trên thì sẽ hiểu được vận mệnh của bản thân mình, vận mệnh của trời đất, của cây cỏ và môi trường xung quanh, từ đó vận hành đúng quy luật thì không những có thể lái chiếc xe cuộc đời mình cập bến một cách thành công viên mãn, mà còn có thể giúp thế giới này trở nên tốt đẹp hơn.
Ngoài yếu tố hiểu và vận dụng đúng quy luật vũ trụ để tạo ra may mắn, thì ÂM ở đây cũng bao gồm cả PHÚC ÂM của mỗi người, mỗi nhà và mỗi dòng họ. Cổ nhân có câu: “Nhất Mả nhị Phòng tam Bát Tự.” để nói lên tầm quan trọng của mồ mả và nhà cửa còn hơn cả ngày tháng năm sinh của bạn. Mỗi một người sinh ra đều có mối liên hệ khăng khít với cộng đồng, nguồn gốc ban đầu. Nó giống như cái cây đều xuất phát từ bộ rễ và cành lá. Như vậy, mồ mả chính là yếu tố đại diện cho nguồn gốc của các dòng họ, là phúc âm của dòng họ. Khí phúc âm mà thịnh thì con cháu thịnh, phúc âm mà suy thì con cháu cũng theo đó bị ảnh hưởng. Nhị Phòng là nói về yếu tố nhà cửa, môi trường sống của con người, nó cũng tuân thủ các quy luật nói trên.
Có một lần, khi đi đến xem phong thủy cho một cặp vợ chồng, mặc dù chưa hỏi tên và ngày tháng năm sinh cụ thể, nhưng nhìn qua cách sắp xếp bài trí trong nhà, hình thù ngôi nhà, v.v. tôi liền hỏi tế nhị: “Hỏi khí không phải, có phải nhà mình nữ mạnh hơn nam, vợ phải gánh vác việc của chồng?”. Cô vợ ngạc nhiên hỏi lại: “Sao thầy biết?, thú thực với thầy là em cũng không muốn gánh vác việc già đình làm gì cho khổ ra, nhưng không hiểu sao nó lại thế ạ!”. Tôi trả lời: “Bởi do phong thủy ngôi nhà, âm quá vượng mà dương quá suy, v.v..”.
Và còn rất nhiều những yếu tố khác, mặc dù chúng ta không thể dùng mắt thường để nhìn thấy nó nhưng nó vẫn tác động đến chúng ta hàng ngày. Tại sao chúng ta lại không thấy những yếu tố như khí âm, khí dương, người thiên, người âm, tổ tiên, ma quỷ, v.v.? Điều này chẳng có gì lạ, con mắt mình không thấy bụi, không thấy gió, không thấy điện, không thấy vi rút, vi khuẩn, vi trùng, v.v.. Nhưng mấy cái đó nó có thật, chứ không phải ta không thấy là chúng không tồn tại. Trời sinh xác thịt có một cặp mắt để thấy gọi là con mắt trần gian. Những thứ đó cũng có một con mắt khác để xem coi gọi là “thần nhãn”, “thiên nhãn”. Ngày nào con người chưa dùng trở lại được “thần nhãn” và “thiên nhãn” thì còn chưa nhìn thấy phần âm. Vậy có 2 con đường để chúng ta tìm lại bản năng thần nhãn và thiên nhãn của mình đó là tu luyện để mở ra hoặc học các bộ môn về lý số để luận đoán.
4. Tứ Đức: Đức chính là việc con người tạo ra CÔNG ĐỨC và PHÚC ĐỨC, từ đó có thể tối ưu hóa được vận mệnh của bản thân.
Đó là tập hợp tất cả những suy nghĩ, hành động và lời nói của bạn mà có công năng mang lại giá trị cho người khác, cho thế giới xung quanh bạn. Nhờ cái công năng này, nó tạo ra một nguồn năng lượng, hay từ trường xung quanh bạn khiến cho “thiện thần thì ủng hộ, qủy dữ lánh xa.”, nguồn năng lượng đó gọi là ĐỨC.
Ông cha ta có câu “Có Phúc thì có phần - có Đức mặc sức mà ăn”, ý nói rằng nếu hàng ngày chúng ta biết tích phúc, tích đức bằng cách trao giá trị cho người khác thì đến một ngày nào đó, thành quả sẽ thuộc về phần ta. Đây chính là vận dụng quy luật nhân quả để cải mệnh. Nếu Vận Mệnh của bạn không tốt, bạn phải biết trao thật nhiều giá trị để bù đắp lại những điều không tốt đó thì đến một ngày bạn sẽ tốt hơn. Nếu vận mệnh của bạn đã tốt rồi, lại tiếp tục tích phúc đức thì càng ngày bạn càng tốt hơn nữa. Nhớ là phải gieo thì mới có gặt, phải có công năng thì mới tạo ra nguồn điện, phải hành động mới tạo ra kết quả, phải tích đức thì mới có phúc phần dành cho mình.
Như vậy, ngoài yếu tố biết vận dụng quy luật vũ trụ ở “TAM ÂM” để cải vận thì cách nhanh và hiệu quả nhất để bạn cải vận chính là TỨ ĐỨC (làm nhiều việc tốt). Là dùng các biện pháp tích Đức để cải hóa vận mệnh. Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn.
Vậy cách thức để cải hóa vận mệnh như thế nào, chúng ta sẽ cùng nhau quay trở lại ở chương cuối cùng - NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TỐI ƯU HÓA VẬN MỆNH.
5. Ngũ Giao Tế: Là giao tiếp tế nhị, vận dụng các mối quan hệ.
Giao tế là kỹ năng cần thiết đối với mọi cá nhân, mọi thành viên của xã hội sống hợp quần. Chung quanh chúng ta, có những người được cho là “khéo giao tiếp”, thí dụ đó có thể là “cô Loan” lúc nào cũng nhỏ nhẹ, hay “anh Tuấn” luôn bình tĩnh dù phải nghe những lời chỉ trích, hoặc “ông giám đốc Toàn” biết sửa lỗi nhân viên bằng những lời từ tốn. Nhưng có những người khác lại mang tiếng “vụng về”, thí dụ như “cậu Khánh” luôn cho rằng chỉ ý kiến của mình mới đúng, hay “bé Thủy” không bao giờ chấp nhận mình sai. Có những người mà chúng ta nhận định đơn giản là “vô duyên”, họ đang nói chuyện này bỗng xọ sang chuyện khác; họ cũng có thể nói mãi về một chủ đề và nói đi nói lại những chi tiết đã nói rồi, dù những người chung quanh đã đi sang chủ đề khác; họ có khi đứng quá sát người đối diện khiến ai cũng cảm thấy không gian cá nhân bị xâm phạm. Còn lại, đại đa số chúng ta có khả năng giao tiếp ở mức trung bình.
+ Kỹ năng Sử dụng ngôn ngữ (trình bày): Giao tế là kỹ năng phức tạp đòi hỏi một cá nhân có nền tảng căn bản về nhiều kỹ năng khác. Trước tiên là khả năng sử dụng ngôn ngữ để truyền tải tư tưởng. Ngôn ngữ được sử dụng có thể là lời nói, dấu tay, chữ viết, hình ảnh, v.v.. Dù ở hình thái nào, ngôn ngữ mà một cá nhân sử dụng phải khiến người nghe hiểu được. Tiến trình giao tiếp bị trục trặc nếu người nghe không hiểu lối bày tỏ của người nói.
Thí dụ: bé Mai nói ngọng nên mẹ không hiểu bé muốn ăn gì; bé Khôi ra dấu bằng tay nhưng người bạn – vì không hiểu ngôn ngữ ra dấu tay – nên tròn mắt nhìn; bà Trúc nói nhanh và nhiều khiến con bà không kịp nhớ những gì bà dặn v.v..
+ Tiếp thu ngôn ngữ (lắng nghe): Sử dụng ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên, thì tiếp thu ngôn ngữ sẽ là yếu tố kế tiếp. Một cá nhân phải hiểu được lời nói hay câu hỏi của người đối diện để câu chuyện có thể tiếp tục.
Thí dụ: Bé Hiền phải hiểu câu hỏi “Con muốn mặc áo đầm hay quần jean?” của mẹ để có thể cùng mẹ chọn áo quần bé thích. Còn với Bé Khôi, khi được hỏi cùng câu hỏi đó sẽ phải cười hoặc tỏ ý không thích vì biết mẹ đang có ý ghẹo mình. Bé Khôi có thể trả lời: “Con là con trai mà!”.
Khả năng tiếp thu ngôn ngữ ở mức độ cao hơn còn có những lời nói ví von, mang nghĩa bóng. Thí dụ như Anh Đức khi nghe mẹ nói: “Gớm, con trai mẹ bây giờ nấu cơm giặt giũ giỏi thế nhỉ!” thì phải hiểu có thể là mẹ khen hoặc biết đâu mẹ lại đang không vui vì thấy cậu con trai cưng phải xuống bếp làm việc nhà thay vợ thì sao.
+ Đoán biết âm giọng, từ ngữ: Đoán biết âm giọng, từ ngữ của người nói là kỹ năng quan trọng. Thí dụ Anh Đức có thể biết mẹ mình đang khen anh và vui thực lòng, hay đang khó chịu qua âm giọng của bà. Trẻ con biết nghe âm giọng cha mẹ, thầy cô để đoán ra chúng đang được khen ngợi, khích lệ hay là bị khiển trách. Một em bé tự kỷ có thể khóc hoặc tỏ ra sợ sệt, bịt tai, chạy trốn khi nghe giọng nói nghiêm khắc của cô giáo hay ba mẹ. Các cô cậu học cấp 3 có thể “lạnh gáy” khi nghe những từ “anh, chị, cô, cậu” như trong câu: “Bây giờ anh 17 tuổi, anh còn nghe lời chúng tôi không?” hay “Cô bao nhiêu tuổi mà cô dám dạy khôn cha mẹ?”. Tuy nhiên, cũng cùng chữ “anh, chị” nhưng được dùng bằng âm giọng ôn tồn, các em sẽ thấy được tôn trọng: “Nay anh đã lớn, ba mẹ mong anh sẽ giúp ba mẹ kèm các em học ở nhà.”
+ Giao tiếp mắt: Vì giao tế cần ngôn ngữ, giao tế cũng cần khả năng giao tiếp bằng mắt khi trò chuyện. Có vẻ như đây là kỹ năng từ khi sinh ra con người đã sẵn có, không cần ai dạy. Trên thực tế, với đại đa số chúng ta, đúng là việc nhìn vào mắt người đối diện để truyền - nhận thông tin là kỹ năng không cần ai phải dạy. Đứa bé ở vài tháng tuổi, được mẹ ôm trong tay, đang bú mẹ mà mắt cứ nhìn chăm chăm vào gương mặt mẹ, quan sát sự thay đổi, giãn nở của cơ mặt mẹ, ánh mắt mẹ để rồi cùng hòa nhịp ăn khớp với “bản nhạc giao tiếp không lời” của tình mẫu tử. Rồi ở tuổi biết lẫy, biết bò, chập chững đi, v.v. đứa bé luôn nhìn vào mắt bố mẹ khi đòi bồng ẵm, khi nhõng nhẽo, nũng nịu, hay khi xin đồ chơi này, thức ăn kia v.v.. Đúng là không ai dạy đứa bé sơ sinh kia phải nhìn vào mắt người đối diện, và có vẻ như đó là những gì tạo hóa đã ban cho mỗi con người từ trong bào thai. Các nhà chuyên môn tin rằng, trẻ con nhìn mắt người lớn trước tiên là để yêu cầu, đòi hỏi. Sau đó, chúng quan sát người chung quanh giao tiếp với chúng và hiểu rằng, mắt nhìn mắt là một quy luật của giao tế: Phải nhìn nhau để tỏ ra đang lắng nghe nhau, chú ý đến nhau; và không nhìn có thể là biểu tỏ của sự làm ngơ, sự giận dỗi v.v..
+ Khả năng ghi nhớ những dữ kiện nghe được: Rất nhiều khi, trong giao tiếp, chúng ta nhận được thông tin dồn dập, người hỏi có thể hỏi một câu hỏi sau khi đưa ra hơn một dữ kiện. Thí dụ: “Vào thứ Năm tuần tới, khoảng 8 hay 9 giờ sáng, con có thể đón dì Út rồi đưa mẹ và dì Út lên nhà bác Hai không?” Người nghe phải nhớ những dữ kiện này để có thể tổng hợp và phân tích chúng trước khi đưa ra câu trả lời. Người nói thường bắt đầu tư tưởng của mình bằng câu thứ nhất, và có thể chấm dứt ở câu thứ năm, thứ sáu. Người nghe phải nhớ và thống kê những thông tin của người nói để đáp lời cho thích hợp.
Trong khuôn khổ một buổi thảo luận hay tranh luận, chúng ta có thể gặp khó khăn vì dữ kiện và thông tin tràn ngập, vượt quá mức mà trí nhớ chúng ta có thể kịp ghi lại (vì cùng lúc não còn phải phân tích và phán đoán). Lúc ấy, chúng ta sẽ dựa trên giấy bút để ghi phác lại hay tốc ký.
+ Trí hiểu tổng quát: Giao tế dĩ nhiên cần trí hiểu tổng quát. Thí dụ, để biết chào hỏi cho thích hợp, một cá nhân phải biết đoán định quan hệ họ hàng: đây là bác (tức anh của ba/má), đây là bà, là mẹ của ba/má hay là chị/em của bà nội/bà ngoại, v.v.. Nếu người đối diện không có quan hệ họ hàng, khả năng đoán định vẫn cần thiết. Thí dụ, tôi chào cụ vì người ấy ở tuổi trên cả ông bà tôi; tôi chào cô vì người này có vẻ trẻ hơn cha mẹ tôi; nếu cô gái này ở tuổi của tôi hoặc nhỏ hơn tôi một chút, tôi có thể gọi bằng cô hay ngay cả bằng chị; khi gặp gỡ cấp trên, cấp dưới, lối xưng hô trở nên khách sáo hơn, và khả năng giao tế của một cá nhân đòi hỏi cá nhân ấy phải xưng “tôi”. Tuy nhiên, cũng chính khả năng giao tế ở nơi làm việc cho phép một cá nhân có thể xưng tên hay xưng “anh” “cô” “bác”, v.v. nếu quan hệ làm việc thân tình và đủ tin cậy. Thí dụ, cô thư ký Quỳnh trong những ngày đầu làm việc tại hãng xưởng mới, có thể xưng “Quỳnh” với cô gái trả lời điện thoại ngồi bên cạnh, nhưng sẽ xưng “tôi” với anh chàng trưởng phòng kế hoạch ở gần tuổi của cô và xưng “em” với chị trưởng phòng nhân sự, v.v.. Nếu khéo giao tế, Quỳnh sẽ biết rằng xưng “tôi” với cô gái trả lời điện thoại có thể khiến Quỳnh có vẻ kiêu ngạo và xa cách, trong khi xưng “em” với anh chàng trưởng phòng kế hoạch sẽ làm cô bị hiểu lầm là sàm sỡ, v.v..
+ Quan sát và phân tích: Giao tế cũng đòi hỏi một cá nhân biết quan sát và phân tích. Thí dụ, Chi thấy khuôn mặt mẹ không tươi, mẹ không cười và ôm hôn em như mọi khi là Chi hiểu mẹ đang mệt, buồn hặc giận, v.v.. Khả năng phân tích sẽ cho Chi biết rằng có thể lí do khiến mẹ đối xử với em như vậy là do hồi sáng, Chi khóc khi vào lớp, rồi Chi còn kéo tóc bạn để cô giáo phải gọi cho mẹ. Với chúng ta, trong thế giới người lớn, chúng ta thường xuyên quan sát người chung quanh để đoán định tình cảm, ý muốn, v.v. của họ. Thí dụ, tôi được anh chị B mời đến nhà bàn thảo sự việc đáng tiếc khi con tôi và con anh chị B đánh nhau tại trường. Tôi bước vào nhà và thấy mặt chị B lạnh như tiền. Anh B ngồi sẵn ở phòng khách, chân bắt chéo và chỉ khẽ gật đầu để đáp lời chào của tôi. Tôi có thể hiểu ngay anh chị B đang cho rằng lỗi hoàn toàn ở con tôi. Ngược lại, nếu cả hai anh chị cùng ra cửa đón tôi với những nụ cười và lời chào nồng nhiệt, tôi biết tôi có thể dễ dàng cùng anh chị thông cảm và giúp hai đứa trẻ tiến bộ.
Khả năng quan sát này có vẻ thiếu đi ở một số cá nhân. Nói cách khác, kỹ năng đọc vẻ mặt, điệu bộ… hình như không phải ai cũng có. Thí dụ, bé Nhân không biết rằng bà ngoại mệt, nằm liệt trong giường nên bé vô tư đòi bà bế bé ra chợ; chị Hoa cứ huyên thuyên kể chuyện con mình nhận bằng khen mà không nhận ra ánh mắt thoáng buồn của người bạn có đứa con chậm phát triển, v.v.. Những cá nhân quan sát giỏi thường có khả năng chỉnh sửa lời nói và thái độ của mình. Thí dụ, bé Mi đang líu lo: “Bố ơi, bố ơi, bố có nghe con nói không? Bà cho con trái táo đẹp quá đây này! Bố nhìn này…” thì bỗng im bặt, lặng lẽ rón rén ra khỏi phòng khi thấy bố bé đang nghe điện thoại. Cũng bé Mi, Mi hăng hái kể “Con gấu trèo lên cây này mẹ, nó lấy đá ném vào anh của nó.” Khi thấy mẹ tròn mắt nhìn mình, Mi có khả năng sửa lại câu chuyện: “Nó dọa thế thôi mẹ ạ! Nó đùa đấy mà! Gấu đâu có đánh anh, mẹ nhỉ!”
Trên đây là một bài viết tổng quan về yếu tố thứ 5, giao tế đúng là khả năng phức tạp, vì những đề mục nhỏ trên đây chỉ là một phần của giao tế. Để thành công trong giao tế, một cá nhân còn cần nhiều kỹ năng khác. Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu ngắn gọn: giao tế là kỹ năng giao tiếp tinh tế và sử dụng các mối quan hệ trong cuộc sống. Điều này còn quan trọng hơn yếu tố thứ 6 đó là TÀI NĂNG của mỗi người.
Các nhà khoa học NLP đã nghiên cứu 7% vĩ nhân trên thế giới và họ phát hiện ra rằng tất cả 7% vĩ nhân đều có phương thức giao tiếp giống nhau về mặt nguyên tắc. Từ đó họ tập hợp lại và sáng tạo ra bộ môn “NLP - Lập trình ngôn ngữ tư duy” để giúp cho những người bình thường cũng có thể “bắt chước” cách mà 7% vĩ nhân giao tế với thế giới xung quanh như thế nào, qua đó luyện thành thói quen thành công như họ. Hiện nay bộ môn này đang được phổ biến rộng rãi trên thế giới, bạn cũng có thể học và luyện tập để cải tạo vận mệnh cho chính mình.
6. Lục Tài Năng
Tài năng là một năng lực xuất sắc, có khả năng làm giỏi và sáng tạo một việc gì đó. Tài năng là bẩm sinh, cần phát hiện và phát triển các tài năng.
Thế giới chia tài năng ra làm các loại hình như:
v.v..
Nếu bạn muốn biết có thể tham khảo bộ SINH TRẮC VÂN TAY để khám phá những tài năng thiên bẩm của mình. Và trong cuốn BẢN ĐỒ VẬN MỆNH này bạn cũng sẽ được phát hiện ra bạn tài năng ở đâu.
Tuy nhiên tài năng chỉ là yếu tố cuối cùng trong 6 yếu tố, bởi vì tài năng mà không biết sử dụng đúng cách, đúng nơi đúng chỗ (khả năng giao tế) thì cũng không phát huy tác dụng. Sử dụng đúng nơi rồi mà các yếu tố còn lại như thiếu phúc đức (thất đức), thiếu âm (am hiểu quy luật), đặc biệt là chưa đến thời (vận xấu) và mệnh xấu thì cũng không thể thành công được.
Thỉnh thoảng bạn về quê thường nghe các cụ phàn nàn rằng thằng A nó học giỏi nhất lớp nhưng giờ khổ hơn cái đứa B hàng xóm trước đây học dốt như bò (cái này là tài về IQ của người A không bằng được Vận - Mệnh – Âm - Đức của người B); hay kiểu như đứa thứ 2 nhà tôi dù học không giỏi, làm việc cũng bình thường nhưng được cái khôn ngoan, nhanh nhẹn, biết giao tiếp nên giờ nó giàu hơn thằng anh học giỏi nhưng cứ tẩm ngẩm tầm ngầm (cái này là giao tế thắng tài năng về IQ); hay đơn giản thỉnh thoảng bạn hay nghe người ta than phiền rằng nhà ông A ăn ở hiền lành, hay giúp đỡ người khác, làm việc chăm chỉ mà suốt ngày gặp điều xui xẻo, còn gia đình ông B keo kiệt, bủn xỉn, ăn chặn người khác vậy mà toàn gặp may mắn, đúng là ông trời không có mắt, v.v. (việc này thì rõ là không phải ông trời không có mắt, mà vì cái ĐỨC của ông A đang tích hiện tại chưa thể so sánh được với Mệnh – Vận - Âm của ông B, đó cũng chính là cái Đức mà ông B đã gieo từ quá khứ trước đó).
Nắm rõ 6 yếu tố trên đây, sẽ là câu trả lời chuẩn xác nhất cho những câu hỏi đại loại như: Tại sao người kia tài giỏi thế mà vẫn không thành công, còn người nọ chẳng giỏi giang gì mà lại thành công đến thế?!
Hà Nội, ngày 24 tháng 03 năm 2020
Thay mặt Hội đồng Chuyên gia Lý số - Phong thủy
Nguyễn Văn Hiệu
0911.98.87.68
Nội dung, và các cơ sở lý luận của bộ môn ngoại suy thần số học và tứ trụ học để lập ra Bản đồ vận mệnh.
Tứ trụ là một bài toán đi tìm lời giải vận mệnh của đời người thông qua việc giải một hệ phương trình nhiều biến.